Lưu Trùng Dương- nhà thơ của nhân dân
(Cadn.com.vn) - Nhà thơ Lưu Trùng Dương – người có nhiều cống hiến xuất sắc cho nền văn học cách mạng Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến và trong thời kỳ xây dựng, phát triển đất nước sau năm 1975 – nay đã bước vào tuổi 80. Ngày 25-2, trong dịp chào mừng Ngày Thơ Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật TP Đà Nẵng đã tổ chức Lễ mừng thọ một người “anh lớn” trong làng thơ Đà Nẵng và cả nước.
Nhà thơ Lưu Trùng Dương, tên thật là Lưu Quang Lũy, sinh năm 1930 tại Q. Hải Châu (TP Đà Nẵng). Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn học nghệ thuật nổi tiếng; anh trai ông là nhà thơ - soạn giả Lưu Quang Thuận và cháu ruột của ông là nhà thơ - kịch tác gia Lưu Quang Vũ... Bút danh Lưu Trùng Dương, với ông mang nhiều ý nghĩa.
Ông dùng Lưu (họ cha) ghép với Dương (họ mẹ) và chữ Trùng có nghĩa là hòa hợp với nhau. Bút danh gắn liền với đấng sinh thành cùng với ước mong hạnh phúc, an lành; điều này đã thể hiện ông hết sức yêu quý, trân trọng những sáng tác của mình. Ngoài ra, ông còn có các bút danh khác như Trần Hướng Dương, Trần Thế Sự, Lưu Ly...
Hơn 60 năm “tuổi Văn” kể từ khi ông tham gia kháng chiến (1947) đến nay, Lưu Trùng Dương đã có một gia tài khá đồ sộ, về thơ: xuất bản được 19 tập, trong đó có 9 tập thơ, 4 truyện thơ, 5 trường ca và 1 tuyển tập thơ; văn xuôi, có 14 tập gồm 1 tập truyện ngắn, 5 tập ghi chép, bút ký; 2 tập truyện kể và 6 tiểu thuyết, truyện vừa; kịch bản sân khấu có 6 tác phẩm gồm kịch thơ, kịch nói, kịch dân ca và 3 kịch bản phim tài liệu, phim hoạt hình, phim truyện... Cũng chính vì vậy, Lưu Trùng Dương được các thế hệ bạn đọc tôn vinh là “nhà thơ, nhà văn của nhân dân, của anh Bộ đội Cụ Hồ”.
![]() |
|
Ông Bùi Công Minh- Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT TP Đà Nẵng tặng hoa, quà chúc mừng nhà thơ Lưu Trùng Dương. |
Các tập thơ “Tập thơ của người lính” (1949), “Những người đáng yêu nhất” (1960), “Nỗi nhớ màu xanh” (1975), “Trên đỉnh Núi Thành ta hát” (1979), “Thơ tặng anh bộ đội Cụ Hồ” (1990)” và các tiểu thuyết “Họ đi tìm thiên đường” (1988), “Người báo thù đáng yêu”(2008)... đã ghi dấu ấn đậm nét trong lòng bạn đọc qua các thời kỳ chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước hiện nay.
Có nhà nghiên cứu đã “vẽ” ra bức chân dung rất đẹp và cũng rất chính xác về ông: “Lưu Trùng Dương là nhà thơ của nhân dân, của cách mạng, của quân đội nhân dân, ông lẫn vào hàng ngũ lớn để hát ca cuộc sống, con người làm nên chiến thắng”. Chọn viết về người lính trong tư cách những-con-người-bình-thường, những người con của nhân dân, đó là đặc điểm thẩm mỹ nổi bật của phong cách thơ Lưu Trùng Dương.
Chân dung anh Bộ đội Cụ Hồ từ thời kỳ 9 năm chống Pháp và giai đoạn chống Mỹ khốc liệt đã được ông đưa vào thơ thật nhẹ nhàng, bình dị: “Lỡ bữa nào cá ôi, rau úng; Lòng tôi buồn như mủng cơm khô; Bữa nào đơn vị ăn no; Tôi vui thấy cả bếp tro hóa hồng…” (bài thơ Thương nhất anh nuôi). Không chỉ viết về người lính trong chiến tranh mà cả trong hòa bình, khi rời quân ngũ trở thành những con người bình thường cũng được ông khắc họa với những chân dung rất đẹp, rất đáng yêu. Và cả khi viết về những người kỹ sư, công nhân lao động, cô mậu dịch ở khu gang thép; viết về các nông trường, cửa hàng mậu dịch... thì hầu hết “nhân vật trữ tình” trong thơ ông vẫn nổi lên những phẩm chất cao đẹp, biết sống hết mình vì lý tưởng cách mạng...
![]() |
|
Nhà thơ Lưu Trùng Dương và những người bạn. |
Một mảng đề tài quan trọng khác của Lưu Trùng Dương là tình cảm với quê hương qua những bước thăng trầm của lịch sử. Là người con của Đà Nẵng, của miền Trung, thơ Lưu Trùng Dương dành nhiều tình cảm yêu thương quê hương trong thời gian bị bom đạn chiến tranh: “Ơi khu Năm/ Ơi khúc ruột miền Trung, nơi ấp ủ nấm mồ của mẹ/ Nơi bão đạn mưa bom mấy nghìn đêm Trường Sơn không ngủ/ Nơi nhân dân dạy ta nổ súng và làm thơ”... Hay như: “Lửa cháy ngút trời Đà Nẵng/ Đêm nay Đà Nẵng đứng lên rồi… Ôi thuốc súng căm hờn từ lâu nén chặt/ Trong lòng ta nay đã vút bay lên/ Hỡi Ngũ Hành Sơn đang cùng ta tiến bước/ Hỡi sông Hàn đang cuộn sóng Bạch Đằng giang/ Lớp lớp xông lên thế trận trùng trùng/ Ta vây chúng trong vòng vây lửa thép/ Của chiến tranh nhân dân thiên thần vô địch/ Của nghìn năm bất khuất/ Của đi đầu diệt Mỹ đất trung kiên”...
Viết về nhà thơ Lưu Trùng Dương, nhà nghiên cứu Hồ Hoàng Thanh nhận xét: “Từ những hành động vượt sông, treo cờ ở khu Đông trong kháng chiến 9 năm đến trận đánh giải phóng Đà Nẵng; từ người lính xung kích chân đất của Trung đoàn 108 đến người chiến sĩ ngồi trên tháp pháo xe tăng tiến về TX Tam Kỳ và sau này tham gia xây dựng hồ Phú Ninh, đã diễn ra cả một quá trình liên tục chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành của con người đất Quảng vượt lên mọi gian khổ, mọi đau thương, tang tóc.
| Trong quá trình hoạt động nghệ thuật, nhà thơ Lưu Trùng Dương đã đoạt được nhiều giải thưởng văn học có giá trị. Điển hình như: Bài thơ “Bài ca tự túc” đoạt giải A cuộc thi thơ “Tự túc” (năm 1948); “Tập thơ người lính” đoạt Giải thưởng Phạm Văn Đồng (năm 1951); 2 giải thưởng loại A của UBND tỉnh QN-ĐN trao cho các sáng tác trong thời kỳ 1945-1975 và thời kỳ xây dựng hòa bình 1975-1985… Ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huân chương Chiến thắng hạng Nhì; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba… |
Sẽ rất thiếu sót nếu không đề cập đến đề tài tình yêu, tình cảm riêng tư trong thơ Lưu Trùng Dương. Những bài thơ tình của ông đều gắn với tình yêu lý tưởng cao đẹp: “Anh yêu em vì sao không biết rõ/ Chỉ biết yêu em anh thấy yêu đời/ Như chim bay hít thở khí trời/ Như ruộng lúa uống dòng nước ngọt/ Em hy vọng, em là mơ ước/ Là niềm đau, nỗi khổ, nguồn vui”...
Nhà văn Bùi Tự Lực – Chi hội phó Hội Nhà văn Việt Nam tại Đà Nẵng - phát biểu cảm tưởng của mình về nhà thơ Lưu Trùng Dương tại buổi lễ rằng: “Với tôi và những người cùng thế hệ như tôi, thi sĩ Lưu Trùng Dương thuộc lớp người cha chú, đã đi qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Sự nghiệp văn chương và tên tuổi của ông gắn liền với những giai đoạn phát triển của nền văn học Việt
Đại diện thế hệ đi sau, tôi xin kính chúc thi sĩ Lưu Trùng Dương mạnh khỏe, đại thọ và tiếp tục cống hiến cho bạn đọc những tác phẩm hay; mãi mãi là tấm gương sáng về lao động nghệ thuật miệt mài đối với văn nghệ sĩ trẻ và cùng lớp đàn em tiếp bước theo sau như chúng tôi”.
Doãn Hùng (ghi)








